Đêm ấy, hai ông cháu ngồi trước hiên nhà đến tận khuya. Xị rượu thuốc bắc Ngũ xà đại hội mới vơi được vài ly rồi bỏ dở không ai buồn uống tiếp. Ba Bình kể cho ông Tư tất cả những chuyện bất hạnh xãy ra trong đời anh và Huệ Trắng.
Oâng Từ Tràm đón nhận chiếc nhẩn vàng do Ba Bình trao lại, xoay trở mãi trong tay. Chiếc nhẫn đã mang theo tất cả tâm tư ước nguyện của Huệ Trắng trong những ngày long đong vất vả trốn trại ra đi. Và khi Huệ Trắng không may bị nạn như có một sự linh thiên kỳ diệu nào đó, bàn tay đeo nhẩn vẫn còn lại như linh hồn cô theo bước anh về đến tận đây.
Oâng tư rưng rưng nước mắt giọng nghẹn ngào:
– Vậy là chúng nó bỏ Tư đi hết rồi con ạ. Tư vẫn hi vọng chúng nó đi tới đâu rồi cũng có lúc trở về nhìn lại quê hương. Chỉ tội cho con Huệ. . . số nó khổ sở lận đận nhất nhà. . .
Nhìn thấy ông Tư như vậy, bất giác anh nhớ đến đêm trăng kinh khủng trên sông Vàm Nâu và chua xót nghĩ rằng chính vì lỗi của mình mà anh đã mất Huệ Trắng. Anh luống cuống nâng chén rượu lên dốc một hơi cạn sạch. Men rượi nặng bùng lên rừng rực như muốn thiêu cháy tất cả những gì còn lại trong đời anh.
Khi nỗi đau đã dịu đi, ông Tư hỏi Ba Bình:
– Giờ con tính sao. Mai mốt có định vượt biên nửa không?
– Con bây giờ như người bị quê hương từ bỏ. Muốn ở lại nhưng đi đâu cũng không có đất trú chân. Họ đang lùng bắt con gắt gao. Không ai có thể minh oan cho con được. Nếu họ bắt, thì cũng chẳng cần tòa xét xử, con sẽ bị đưa đi cải tạo không biết bao giờ được tự do. Chắc rồi con cũng phải đi.
Oâng Tư ghé sát lại Ba Bình, giọng trầm hẳn lại:
– Cực chẳng đã mới bỏ quê hương ra đi. Con đã tính như vậy thì . . . để ông Tư tính cho, ông Tư có thể thu xếp cho con, ở lại với ông Tư ít hôm đi đã, đừng ngại.