– Dạ, thầy ấy cầm một con hình nhưn không biết bằng chất gì, viết tên tuổi con bệnh vô đó, niệm chú, vẽ bùa. Con bệnh ở phòng bên, cứ mỗi lần thầy ấy thổi vô hình nhơn là nó dẫy dụa chịu không nổi, than khóc ầm trời. Xin tha.
Thầy Tư nghe San nói tần ngầm, ông nói nho nhỏ nhưng mọi người đều nghe rõ.
– Ai ngờ học trò thầy Mười mà cũng biết được cà những phép thuật siêu đẳng nhưvậy. Nếu đúng như thầy nói; thầy Hoa không những trị bệnh được, mà còn cớ thể dùng phép đó giết người xa hàng vạn dậm nữa. Ghê gớm thực.
San bàng hoàng hỏi:
– Thưa thầy, phép trị bệnh đó có liên quan gì, tới giết được người ở xa đâu.
Im lặng một lúc lâu, thầy Tư mới nói:
– Hồi đó chính Sư Ông cũng biết phép thuật này, nhưng không truyền cho tôi, vì ngài nói phép này ác lấm,người thầy có thể dùng nó trị bệnh, nhưng cũng có thể dùng nó để đối phó với những địch thủ ở xa. Con hình nhơn đó được luyện rất công phu, chỉ cầnviết tên tuổi hoặc cẩm một ít tóc, hoặc cuốn nó lại bằng miếng vải áo quần gì đó của địch thủ là kể như người đó tới số rồi. Những thầy bà khác không có cách gì cứu được nạn nhân, trừ khi tiêu huỷ được con hình nhơn đó mới giữ đưực mạng sống nạn nhân thôi. Tuy nhiên, đụng tới con hình nhơn đó cũng không phải dê đâu, lạng quạng mang họa sát thân đó. Tôi không ngờ Sư Tổ lại tryền phép thuật này cho thầy Mười, để bây giờ ông ấy truyền lại cho cả đệ tử chưa hề lên núi bái Tổ lần nào như thầy Hoa thì cũng liều thực.
San gật gù, nói:
– Hèn gì con thấy thầy Hoa bóp con hình nhơn ở đâu thì bệnh nhơn la đau ở đó. Nếu như vậy, thầy ấy lấy cây kim thọc ngay tim con hình nhơn thì kể như bệnh nhơn chết chắc.
Thầy Tư gật đầu, đồng ý:
– Đúng rồi. Đó chính là phép thư người độc địa nhất của môn phái. Tôi tưởng tới đời Sư Ông là thất truyền rồi, ai ngờ bây giừ nó lại xuất hiện ở đây, do một học trò nhỏ tuổi như thầy Hoa xử dụng.
– Thầy có nghĩ là còn nhiều người khác biết nữa không?
– Tôi hy vọng thầy Mười không truyền phép ẩu tả tới mức đó. Chỉ một mình thầy Hoa biết được cũng đủ chết nhiều người rồi, nói chi ai cũng biết thì thiên hạ tới thời đại loạn rồi.
San tần ngần hỏi:
– Thưa thầy, không lý phép này lại còn nguy hiển hơn Thiên Linh Cái nữa hay sao?
Thầy Tư lắc đầu:
– Không hẳn nhưvậy, nhưng Thiên Linh Cái rất khó luyện, không phải ai biết cách luyện cũng có cơ hội luyện được Hơn nữa với Thiên Linh Cái, mình còn có phép trừ. Nhữngngười cao tay ấn không coi Thiên Linh Cái vào đâu. Họ có thể giết chết con Thiên Linh Cái đó cũng không khó khăn lắm. Nhưng với loại hình nhơn này thì chịu thua. Bởi vì nó vô chi vô giác. Tuy nhiên, Thiên Linh Cái mà luyện cho nó thành tinh rồi thì cũng ít ai trừ đưực nó lắm.
San buột miệng:
– Thầy Mười đã điều khiển được Thiên Linh Cái bò ra ngoài rồi.
Thầy Tư nhẩy nhổn như người ngồi phải lửa, ơng hớt hải nói:
– Thầy nói cái gì?
– Con nghe thầy Hoa nói; Thầy Mười đã kêu được con Thiên Linh Cái bò lên khỏi bình rượu ngâm nó rồi, như vậy có phải nó đã thành tinh không?
Thầy Tư thờ thẫn trông thấy, mặt ông tự nhiên co lại thật khổ não. Ông nói như rên rỉ:
– Tai họa, tai họa. Đúng là nó đã thành tinh rồi còn gì nữa. Hồi nó còn nằm yên trong bình rượu, thầy Mười chỉ có thể sai khiến linh hồn nó đi giết người. Tuy nhiên, gặp những ai nặng bóng vía, đàn bà có tháng, hay vật gì linh thiêng trong bàn thờ, chùa chiền, con nl;ên Linh Cái không dámbén mảng tới. Bây giừ nó thành tinh rồi, những thứ đó không còn nghĩa lý gì nữa. Nó không còn ở thế giới
vô hình nữa mà trở thành vật thể hẳn hoi. Nó đã đi từ thế giới siêu linh vô hình tới vật thể hữu hình bằng xương bằng thịt. Nếu đúng nhưvậy, thầy Mười có thể sai nó tới đây bóp chết hết đàn rắn Trun của mình nội trong một khắc.